Trước sân nhà tôi không có cau. Nhà tôi trước giờ không trồng cau. Trước sân nhà tôi có một cây ổi, giống ổi ghém, thân cao mà thẳng. Bên trái nhà có một cây vú sữa, bên phải nhà có cây keo. Lá keo giống như lá me, nhỏ li ti, khi gió thổi thì bay lả tả. Tôi hay đứng dưới gốc cây ngước nhìn lên những chùm trái keo đong đưa, thỉnh thoảng qua kẽ lá lại thấy cái đuôi khói của một chiếc máy bay phản lực – hồi đó con nít tụi tôi không biết nên cứ gọi là B52 – cắt ngang thành hai đường trắng rực trên nền trời. Lúc đó tôi sáu tuổi. Lúc đó tôi bảy tuổi. Lúc đó tôi tám tuổi. Lúc đó tôi không biết mình chỉ còn ở nhà thêm hai năm, cũng không biết sau này mình cũng sẽ ngồi trong một cái B52 bay trên trời. Lúc đó tôi đâu có biết chừng hai mươi năm sau, khi lớn lên, mình lại đi xa đến vậy.
Thỉnh thoảng tôi lại nghĩ, sau khi tôi đi rồi chắc cũng có người đến tìm tôi ở làng Hanh Đông, nhưng tôi không còn ở làng Hanh Đông, khoảng sân trước nơi tôi ngồi bắn bi người ta đã lấp. Có người đến tìm tôi ở trong hẻm đường Trưng Nữ Vương, nhưng tôi không còn ở đường Trưng Nữ Vương, cái bàn gỗ tôi ngồi học lúc sửa nhà người ta đã khiêng đi mất. Có người vào Sài Gòn tìm tôi, nhưng tôi không còn ở trọ bên Bình Thạnh, cũng không còn nằm nghe Trầm Tử Thiêng trong một căn gác gỗ trên bờ kênh Nhiêu Lộc. Có người qua Singapore gõ cửa phòng tôi, nhưng căn phòng có hoa hồng xanh bên cửa sổ giờ đã có người khác thuê, tôi không còn ở đó để mỗi buổi tối về lại bật tắt ngọn đèn ba bóng nữa. Rồi lại có người sang tận Luân Đôn tìm tôi, nhưng đã hết mùa thu, tôi không còn ở Luân Đôn, buổi chiều không còn tạt vào siêu thị gần nhà mua vội một chai nước cam, buổi sáng không còn đi ngang qua cái công viên nhỏ rụng đầy lá sồi nữa. Tôi như con chuột vắng nhà trong câu ca đã cũ, nếu có ai trèo lên cây cau tìm mà không thấy tôi đâu cả thì xin bỏ lỗi cho tôi. Bỏ lỗi cho tôi, vì thật ra vắng nhà hoài cũng có gì vui đâu, với dù sao từ trước đến nay tôi cũng chỉ vắng nhà có mỗi một mình.